Thị trường hàng không Việt Nam đã có dấu hiệu chững lại từ năm 2017, sau giai đoạn tăng trưởng nóng từ 2016 về trước. Bộ Giao thông Vận tải (GTVT) cũng dự định điều chỉnh quy hoạch phát triển hàng không giai đoạn sau năm 2020, giảm dần xuống mức một con số thay vì hai con số như cách đây 3 năm. Điều đó cho thấy thời kỳ kinh doanh hàng không chạy theo tăng trưởng số lượng hành khách đang dần thay đổi.
Toàn cảnh thị trường hàng không
Giai đoạn 2013-2016, thị trường hàng không nội địa tăng trưởng ở mức 12,6-29,1%. Trong đó, phân khúc hàng không giá rẻ (LCC) tăng trưởng mạnh nhất với thời điểm lên đến 38%, còn hàng không truyền thống tăng ở mức ổn định và thấp bằng nửa con số này.
Từ năm 2017, thị trường hàng không Việt Nam chỉ tăng 9,9% và sang năm 2018 con số này chỉ là 6,9%.
Thống kê mới của Cục Hàng không cho thấy mức tăng toàn thị trường đang sụt giảm. Quý I năm nay, sản lượng vận chuyển khách của các hãng hàng không Việt Nam đạt 12,5 triệu lượt, tăng 4,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Trong đó vận chuyển khách quốc tế tăng 8,4%, khách nội địa tăng 2,4%.
Nhóm công ty Vietnam Airlines (Vietnam Airlines, Jestar Pacific, Vasco) có tổng thị phần 55,3%. |
Đại diện Cục Hàng không nhận định mức tăng trưởng nóng ở những năm trước tập trung vào phân khúc dịch vụ hàng không giá rẻ, chứ cục diện thị trường chưa có biến động mạnh.
Đây cũng là thời điểm thích hợp để giới tài chính nhìn nhận hiệu quả doanh thu, lợi nhuận thực chất của các hãng hàng không, nhất là thời kỳ chạy theo sản lượng vận chuyển đã qua. Giới kinh doanh hàng không thường quan tâm đến doanh thu trung bình/khách và doanh thu trên những đường bay trục chính, chiến lược của từng hãng để đánh giá hiệu quả ngành nghề kinh doanh cốt lõi của hãng đó.
Theo bản cáo bạch khi chuyển sàn niêm yết sang HOSE hôm 7/5, Vietnam Airlines cho biết nhóm công ty Vietnam Airlines (Vietnam Airlines, Jestar Pacific, Vasco) có tổng thị phần 55,3%, dẫn đầu ngành hàng không Việt Nam.
Vietnam Airlines được định vị là hãng hàng không truyền thống, có sự khác biệt lớn với các hãng còn lại. Cụ thể, hãng vừa kinh doanh trên phân khúc hàng không truyền thống với độ phủ hầu hết nhóm khách hàng có chi tiêu, thu nhập cao, vừa kết hợp với Jestar Pacific kinh doanh trên cả nhóm khách hàng có chi phí thấp.
Giải pháp kinh doanh hiệu quả
Cáo bạch của Vietnam Airlines cho biết năm 2018, hãng đạt 98.950 tỷ đồng doanh thu và 3.312 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế hợp nhất, đây đều là những mốc doanh thu và lợi nhuận kỷ lục trong 25 năm hoạt động. Trong đó, doanh thu thuần từ ngành nghề kinh doanh vận tải hàng không đạt 96.810 tỷ đồng (chiếm 81,16%). Doanh thu vận tải hàng không tăng chủ yếu do vận chuyển hành khách, vận chuyển hàng hóa và doanh thu thuê chuyến tăng.
Đại diện Vietnam Airlines công bố kết quả kinh doanh tại Đại hội đồng cổ đông thường niên 2019. |
4 năm sau cổ phần hóa và hoạt động theo mô hình công ty cổ phần (2015-2018), Vietnam Airlines giảm tổng sản lượng vận chuyển hành khách, chỉ đạt 96,4% so với mục tiêu đặt ra trước đó. Thậm chí, tổng doanh thu hợp nhất 4 năm cũng giảm (chỉ đạt 84,6%) so với kế hoạch (một phần do tác động của sụt giảm sản lượng vận chuyển), nhưng lợi nhuận trước thuế hợp nhất giai đoạn này vẫn tăng 111,5% so với kế hoạch. Tại sao hãng duy trì mức tăng trưởng này?
Câu trả lời nằm ở chỗ hãng chủ động cắt giảm sản lượng vận chuyển theo nhu cầu thị trường, điều tải cung ứng linh hoạt để đảm bảo hiệu quả chung của toàn mạng và không bay bằng mọi giá để chạy theo số lượng.
Với mạng bay quốc nội rộng khắp và mạng bay quốc tế đa dạng, Vietnam Airlines có lợi thế cạnh tranh cao trong phân khúc khách trung bình và cao với dịch vụ 4 sao. Đây là nguồn khách hàng mang lại tăng trưởng 7% cho doanh nghiệp trong năm giai đoạn 2013-2018. Việc tăng trưởng 7% khách có doanh thu cao có giá trị gấp đôi tăng trưởng doanh thu chạy theo số lượng khách chỉ vì mục đích đầy tải mà không xét đến chi phí.
Vietnam Airlines có lợi thế cạnh tranh cao trong phân khúc khách trung bình và cao. |
Việc cạnh tranh giữa các hãng hàng không Việt Nam tập trung tại các đường bay quốc nội trục chính là Hà Nội – Sài Gòn – Đà Nẵng và đường bay quốc tế Đông Nam Á, Đông Bắc Á. Tại các đường bay này, Vietnam Airlines không những dẫn đầu về số chuyến bay, giờ bay mà còn chiếm lĩnh phân khúc khách hàng có doanh thu cao và doanh thu trung bình.
Lấy ví dụ, trên đường bay Hà Nội – Sài Gòn, thống kê của hãng cho thấy có 48% khách bay trên Vietnam Airlines. Trong số này, 73% khách doanh thu trung bình và cao (từ 1,5 triệu đồng/vé đến 3,2 triệu đồng/vé trở lên) bay trên Vietnam Airlines, 9% bay trên Jetstar. Như vậy, Vietnam Airlines Group chiếm 81% khách hàng doanh thu cao. Bên cạnh đó, tại phân khúc khách hàng giá rẻ 2018 (dưới 1,5 triệu đồng/vé) trên cùng đường bay nói trên, một thống kê khác cho thấy lượng khách của Vietnam Airlines và Jetstar chiếm 49%, trong khi Vietnam Airlines lại không có chính sách bán vé không đồng như các hãng khác.
Có thể nói, việc Vietnam Airlines thực hiện chính sách thống lĩnh nhóm khách hàng có doanh thu trung bình, doanh thu cao thể hiện đường hướng chiến lược kinh doanh đúng hướng sau cổ phần hóa, cạnh tranh thực sự mà không trông chờ bất cứ sự hỗ trợ nào.
Theo: Zing News
Comments are closed.